Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Lịch sử Nhà Thờ Đức Bà.

Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàigòn





Giáo Đường Tên chính là :
"Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ".
- Tôn giáo: Công giáo Rôma
- Chức năng: Nhà thờ chính tòa
- Quốc gia Việt Nam
- Vùng Tổng Giáo phận Saigon
- Thành phố Saigon
- Địa chỉ Công trường Công xã Paris
- Kiến trúc
-Thiết kế J. Bourad
- Phong cách Kiến trúc Roman
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)

Nhà thờ Đức Bà Saigon, tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.

Lịch sử :
Ngay sau khi chiếm Saigon, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).

Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của "dinh Thống Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.

Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Dupré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn.

Nhà thờ Đức Bà Sàigòn, mặt sau


Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, mặt bên hông.

Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
• Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
• Vị trí hiện nay.

Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Công giáo muốn xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm.

Riêng phía Công giáo, giám mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.
Đến ngày bắt thăm, phía Công giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Công giáo lại trúng thăm [1].

Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Dupré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.



Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm.

Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.

Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp, theo tỷ giá thời bấy giờ.

Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.

Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.


Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh

Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "Hai hình" để phân biệt với tượng "Một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.

Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm.


http://danchuausa.net/giao-hoi-viet-nam/chan-dung-linh-muc-viet-nam-duc-cha-giuse-pham-van-thien/

Khi tượng từ Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy.
Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.

Ngày 05/12/1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Saigon lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon.

Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Saigon cho đến ngày nay.

Những nét đặc sắc

Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh.

Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon - Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.

Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.



Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.

Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.



Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.



Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh.

Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.



Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150 kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.



Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện.

Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30. Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông. Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.



Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.



Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).



Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX

Nghĩa là:
NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17.02.1959

Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

Lịch sử Nhà Thờ Đức Bà.

Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàigòn





Giáo Đường Tên chính là :
"Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ".
- Tôn giáo: Công giáo Rôma
- Chức năng: Nhà thờ chính tòa
- Quốc gia Việt Nam
- Vùng Tổng Giáo phận Saigon
- Thành phố Saigon
- Địa chỉ Công trường Công xã Paris
- Kiến trúc
-Thiết kế J. Bourad
- Phong cách Kiến trúc Roman
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)

Nhà thờ Đức Bà Saigon, tên chính thức là Vương cung thánh đường Chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công xã Paris, Quận 1). Đây là một trong những công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều khách tham quan nhất tại thành phố.

Lịch sử :
Ngay sau khi chiếm Saigon, Pháp đã cho lập nhà thờ để làm nơi hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).

Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô đốc Bonard đã quyết định cho khởi công xây dựng ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh Lớn" (còn gọi là kinh Charner, thời Việt Nam Cộng hòa là trụ sở Tòa Tạp tụng). Cố đạo Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ này bị hư hại nhiều vì mối mọt, các buổi lễ được tổ chức trong phòng khánh tiết của "dinh Thống Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho đến khi nhà thờ lớn xây xong.

Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Dupré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới. Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman cải biên pha trộn nét Gotich đã được chọn.

Nhà thờ Đức Bà Sàigòn, mặt sau


Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, mặt bên hông.

Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3 nơi:
• Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí tòa Lãnh sự Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay thuộc đường Nguyễn Huệ).
• Vị trí hiện nay.

Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Công giáo muốn xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian tranh chấp, ba bên đành phải bắt thăm.

Riêng phía Công giáo, giám mục Colombert yêu cầu giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.
Đến ngày bắt thăm, phía Công giáo bắt thăm trước và trúng thăm, hai phía kia bất bình và yêu cầu bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía Công giáo lại trúng thăm [1].

Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Dupré cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình này. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu.



Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây dựng trong 3 năm.

Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers. Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư.

Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp, theo tỷ giá thời bấy giờ.

Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà nước vì thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.

Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.


Tượng đồng Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh

Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình đức cha Adran với phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh. Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "Hai hình" để phân biệt với tượng "Một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào ở trên.

Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm.


http://danchuausa.net/giao-hoi-viet-nam/chan-dung-linh-muc-viet-nam-duc-cha-giuse-pham-van-thien/

Khi tượng từ Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên cái bệ đài vẫn còn để trống kể từ năm 1945 vào ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy.
Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17 tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.

Ngày 05/12/1959, Tòa Thánh đã cho phép làm lễ "xức dầu", tôn phong Nhà thờ Chánh tòa Saigon lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương cung thánh đường Đức Bà Saigon.

Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh tòa của vị Tổng giám mục Saigon cho đến ngày nay.

Những nét đặc sắc

Trong quá trình xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi), không bám bụi rêu. Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ Guichard Carvin, Marseille St André France (có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của quân Đồng Minh.

Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt, chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc biệt là nhà thờ không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon - Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một lòng chính, hai lòng phụ tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m, tính từ cửa ngăn đến mút chót của phòng đọc kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh đường có thể đạt tới 1.200 người.

Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính hình chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12 vị thánh tông đồ.



Ngay sau hàng cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối có hình sáu vị thiên thần khắc thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn tả thánh tích.

Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh, 31 hình bông hồng tròn, 25 cửa sổ mắt bò bằng kính nhiều màu ghép lại với những hình ảnh rất đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm và trang nhã. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính này hiện chỉ còn hai cửa là nguyên vẹn như xưa.



Nội thất thánh đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài hòa với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành và thánh thiện.



Ngay phía trên cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m, ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những trục, có những phím đàn như đàn organ bình thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn còn có những thanh gõ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi phát ra âm thanh.

Hiện nay, cây đàn này đã hoàn toàn hỏng do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.



Ban đầu, hai tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng, nhìn xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes, tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6 chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150 kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là chuông sol là một trong những quả chuông lớn nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo). Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm Giáng Sinh.



Các chuông đều được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi động bằng cách đạp (vì quá nặng) cho lắc trước khi bật công tắc điện.

Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30. Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ ba chuông. Vào đêm Giáng Sinh thì mới đổ cả 6 chuông. Tiếng chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.



Bộ máy đồng hồ trước vòm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887, hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia đình. Chỉ cần theo dõi chiếc đồng hồ con này, có thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay quay máy xe. Đồng hồ còn có hệ thống chuông riêng, tuy nhiên đã không còn hoạt động do dây cót quá cũ.



Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn con đường giao nhau tạo thành hình thánh giá. Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa bình (hay Nữ vương Hòa bình). Tượng do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m, nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ý, được tạc với chủ đích để nhìn từ xa nên không đánh bóng, vì vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng mặt vẫn còn những vết điêu khắc thô. Tượng Đức Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu, trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên trời như đang cầu nguyện cho Việt Nam và cho thế giới được hoà bình. Chân Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn đã bị bể mất cái hàm trên).



Trên bệ đá, phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX

Nghĩa là:
NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH - CẦU CHO CHÚNG TÔI - 17.02.1959

Phía dưới bệ đá, người ta đã khoét một cái hốc chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu nguyện cho hoà bình của Việt Nam và thế giới. Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một số vùng ngoài miền Bắc.

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

Đêm nhạc tưởng nhớ các bậc tử đạo .


Đêm 16/11/2001 tại Trung Tâm Mục Vụ ,Hội trường GB Phạm Minh Mẫn , diễn ra đêm nhạc :

NHỚ ƠN CÁC BẬC ANH HÙNG TỬ ĐẠO .

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam .

Với sự trình diễn của :BAN HỢP XƯỚNG CA ĐOÀN TRÙNG DƯƠNG.

- BREAK : Cha LÊ QUANG VIỆT (MTN)

Cha TIẾN LỘC

Mr LÊ ĐÌNH BẢNG 9DCCT -TT MV)



1/ Vết Tử Hùng . - Tâm Bảo .HĐT

2/ Đừng Bỏ Tôi . -Viết Chung.

3/ Tôi Vẫn Trông Cậy Vào Ngài . -Viết Chung .

4/ Mẹ Vẫn Ở Đầu Non . - Đình Bằng .HĐT

5/ Kinh Các Thánh Tử Đạo VN . - Vũ Văn Tuynh.

6/ Liễu Đạo Hùng Ca -Laurent de Rilles.

(Trích phim QUO VADIS và trinh chiếu).

7/ Này Con Chớ Lo. - Bob Dufford .

8/ Kinh Cầu Thánh Phanxico -.Sebastian temple.

9/ Ca Nguyện Hòa Bình. - David Haas.

10/ Kinh Lạy Cha . -LM Nguyễn Văn Vinh.

11 /Đường Hy Vọng . -Cao Huy Hoàng .

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

Người xấu ; Người tốt .

Hai  ngày  thật lạ.Chiều nay (6/9 /2011) mình và nhóm Truyền Thông có  lời mời dự lễ  tại Trung Tâm Mục Vụ, số 6 Bis Tôn Đức Thắng ,sau lễ sẽ chia tay Trường nhóm Truyền Thông của Giáo Phận đó là  anh Kình  , lý do anh sắp rời xa VN , nên không thể vắng mặt .
 Thông thường mình rời khỏi Cty lúc 17h , đón con về nhà sắp xếp chuẩn bị đi dự lễ lúc 18h 30 .Ối trời bây giờ đã 16h rồi mà kìa ..xe mình bị sao mà xẹp lép  , chắc phải dắt qua đường vá thôi kẻo không kịp giờ lễ....
 Quyết định đi vá xe liền , lúc này cũng gần tan tầm, mà đoạn đường Nguyễn Thái Sơn lưu lượng xe khá đông ,nên mình dắt qua cũng không thể nhanh hơn .Bỗng  giật bắn mình , vì hai thanh niên chạy xe ngược chiều ,một người ngồi phía sau ,thoắt một cái túm ngay cổ áo mình , rồi chạy cái vù mất tiêu trong đám đông xe cộ qua lại .Phản xạ mình là chụp cổ áo lại và định thần  , thì ra mình bị giật sợi dây chuyền ,có cái  mặt thập tự Chúa , nhưng  may chưa đứt .....
  Hú hồn ,  vẫn còn run và vừa mừng vừa  buồn  vừa nghĩ ngợi : sao hai niên đó còn trẻ khỏe ,còn có khả năng làm việc  ,sao lại có thể chiếm đoạt tài sản của người khác chứ !? 

  Ôi giờ lễ sắp đến , mà   mình mới tới cầu Bông Đinh Tiên Hoàng , bỗng dưng xe mình chạy chậm rì  ,rồ ga thật lớn mà vẫn không nhanh hơn , mình trả số lại xem có nhanh hơn không ... Chúa ơi nó càng nặng hơn , lại còn bốc mùi cao su khét khét  nữa chứ và cuối cùng là không thể chạy nổi .
   Đúng lúc này điện thoại reo ...vì gần đến giờ lễ nên chi Sương ( một chị trong nhóm ) sốt ruột chưa thấy mặt mình và gọi , mình kể tình hình này , chị nói" ráng tìm bãi xe công cộng đâu đó gời đi , đón xe ôm lên , tối chị chở về" mình nghĩ ngay tới Cty Vina Giày  để gởi , nhưng bánh xe nó cứng ngắc cứng đơ , không tài nào di chuyển được , mình muốn khóc ,  bó tay , những người đi đường hiếu kỳ nhìn mình nhưng có lẻ ai cũng bận và họ nghĩ mình cũng sẽ giải quyết được.
 Đứng giữa đường chẳng biết xoay sở thế nào với cái xe bất lực và nặng trịch kỳ khôi , chưa bao giờ gặp như thế này , lúc đó có 2 anh bảo vệ quán cafe gần đó bước ra hỏi ,nhưng cũng không giúp được gì  ,vì họ đang làm nhiệm vụ và họ cũng chẳng có đồ nghề ., rồi lại có 1 chú cũng lớn tuổi đến nói : "Xe cô bị cọ sát bố thắng rồi" (vì thợ vá xe vặn ốc thắng quá chặt , làm nở bố thắng, gây hiện tượng ma sát này)  và chú vừa đẩy vừa khiêng vô lề đường , vào nhà bên cạnh  là tiệm bán đồ lạc xoong  , co ống nước linh tinh gì đó , nhưng đó cũng lại là tiệm của chú luôn (nên mới có kìm),rồi chú gọi đứa con trai ra, lấy kìm vặn vặn sửa sửa một lúc thì xe  di chuyển được ......thế là mình vội vàng cảm ơn , rồi "dzọt" hết ga ..... Vào đến  trung Tâm Mục Vụ , bước vô phòng lễ ,  vừa kịp lúc Cha đang mặc áo lễ , ôi thật may , mình đến kịp giờ lễ rồi ...thở phào toại nguyện , tạ ơn Chúa đã sắp xếp cho con.

  Ngày hôm sau ,là ngày khai giảng lớp viết tin phóng sự , giờ học cũng được bắt đầu lúc 18h 30 .Hết giờ làm việc mình dắt xe ra  về và đi đón con , vừa qua khỏi bùng binh Ngã Năm Chuồng Chó đoạn 1km , xe  lại bị trục trặc , mà lần này là lỗi tại mình vì  hết xăng , phải đẩy bộ thôi , mà  chưa biết cây xăng ở đâu chỉ nhớ loáng thoáng ở gần nhà thờ Xóm Thuốc thì phải ,có nghĩa là đẩy bộ khoảng 2 km  nữa đó , làm việc cả ngày đã mệt , bụng đang đói lại còn đẩy chiếc Honda này nữa mới "đuối",  vừa đẩy vừa cố mở mắt thật to xem cây xăng xuất hiện chưa, dù là cây xăng"cục gạch" , mới đẩy có mấy trăm "centimet" thôi sao mà thấy muốn "say xẩm" rồi , nhưng phải cố   ,kẻo trễ giờ học .....
  Lúc ấy một người đàn ông khoảng hơn  50 tuổi ,chạy chiếc xe giống như CUB 81 đời xưa vậy đó,rà rà theo mình , rồi anh ấy hỏi : 
-" Xe cô hết xăng hả ? "
 Mình nhìn anh ta thấy không hề quen , vì lịch sự nên cũng trả lời cho qua : 
-"Đúng rồi xe tôi hết xăng và hỏi : không biết gần đến cây xăng chưa? "
-" Tôi cũng không biết nữa  , nhưng xe tôi có xăng đây , cô tắp vào lề đường đi , để tôi lấy xăng cho  " anh ta trả lời.
 Sao đây ta , ông nội này thiệt hay giả  zậy ta!? đẩy bộ thì mệt , trễ giờ đón con, trễ giờ đến lớp ,mà "chảnh" sao được ,  phải đồng ý thôi , nhưng ông này ,sao tự nhiên tốt vậy ? hay có ý đồ gì đây  ....!!!??? phải cận thận  . (Vì hôm qua gặp người xấu nên đâm  nghi ngờ )
  Đang suy nghĩ thì anh ta nói:" cô vào lề đường đi" ,
  Quay sang nhìn anh ta từ đầu đến chân , thấy cách ăn mặc rất bình thường không có gì đặc biệt , khuôn mặt thì khó đoán, thấy cũng ..".không gian không ngoan".Thôi thì ghé vào lề đường , nhưng để chắc ăn nhìn xem chỗ nào có người đã . À kia rồi cổng xí nghiệp X 32 , có nhiều người đang đón người nhà tan sở , ghé vô đây , nếu anh ta giở trò gì thì mình  hô hoán lên sẽ có người cứu giúp .
  Bây giờ 2 xe đều dừng lại , không biết anh này sẽ  rút xăng ra bằng cách nào đây ? có giựt cái ống xăng cho vào lon như ông chồng mình  có  lần làm như vậy để rửa sơn ....Ôi phúc tạp quá đi , phiền phức cho anh ta qúa.
  Nhưng không phải vậy , anh ta mở một cái túi vừa nhỏ lại vừa cũ ra , thò tay rút ra một cái ...cái gì biết không ? không ai biết được và đoán được .
  Trời ! một cái ống chích thật to , Cty mình bán dụng cụ thú y , mà mình chưa thấy cái ống chích nào to như thế ,chắc nó phải là 50ml cơ,rồi rút xăng trong bình xe của anh ta  ra , mình nhanh tay  cũng mở nắp xăng , để anh ta bơm xăng cho xe mình  , lần đầu mình thấy màu của xăng là màu xanh rêu đó , ngộ quá!  hay quá , thế là xong "dư sức qua cầu" hihi...
   Mình lại suy nghĩ ,chắc anh ta chuyên làm cái zụ này kiếm tiền đây ,thôi mình đưa cho "ổng" 20.000đ vừa trả ơn ,lại xòng phẳng .Có phải thế đâu, anh ta không nhận , làm mình cũng bối rối chỉ biết cảm ơn , anh ta vội vã bỏ đi trước mình ,  nhìn theo anh ta  và quan sát thấy trên xe  có treo thêm 1 cái mũ bảo hiểm , eo ơi vậy anh ta làm nghề xe ôm đây mà ....
 Đóng nắp xe lại mà vẫn không khỏi thắc mắc .Thời buổi này mà sao có chuyện "thần thoại" lạ như thế ,người tốt vẫn quanh đây ,một ngày anh ta chạy được bao nhiêu tiền ? mà chuyên giúp người kiểu này , 1 lần 50lml xăng thì lấy đâu ra tiền cơm gạo , có phải đây là ông Tiên thời hiện đại ,hay hiện thân Giêsu ...dù rằng hành động này đối với người khác có thể xem là "chuyện nhỏ", nhưng suy cho cùng nghĩa cử thật to tát , từ bé tời giờ , mình chưa từng nghe, chưa từng thấy cách giúp người như thế này bao giờ.
 Càng nghĩ càng thấy xấu hổ khi mình đòi trả tiền công cho anh ta và đánh giá sai lệch về một con người , mà anh ấy lại chỉ làm phước giúp đỡ người khác không hề suy tính ,mà người đời ngày nay vẫn  quan niệm  "Thời buổi nhiễu nhương , Thạch Sanh thì ít Lý Thông thì nhiều "  không  hoàn toàn đúng trong trường hợp này... có lẽ hình ảnh này mình sẽ thật khó quên và chắc cũng không biết khi nào mới gặp lại anh "xe ôm" lạ lùng này !
........Trong lúc vẫn còn suy nghĩ , cạnh đó có 2 cô công nhân đứng chờ người nhà đón ,  họ thấy sự việc của mình ,các cô cũng  hiểu phần nào câu chuyện và cười với mình , cái cười thật đồng cảm .


Thứ Ba, 18 tháng 10, 2011

Tự sự của một người làm PR


Năm năm ngủ quên và cuộc gặp gỡ bước ngoặt
Thất bại của SH Communications là một đòn mạnh giáng vào lòng tự tin của tôi. Dù thất vọng, tôi cũng hiểu rằng ở thời điểm đó, các doanh nghiệp Việt Nam chưa sẵn sàng cho dịch vụ này. Mỹ vừa bỏ cấm vận được hai năm, các doanh nghiệp mới đặt chân vào Việt Nam cần các dịch vụ tư vấn để “mở cửa thị trường” như pháp lý, đầu tư hoặc vận động hành lang (lobby) hơn là những dịch vụ quảng bá cho hình ảnh hay thương hiệu. Các bạn tôi, những người từng chia sẻ ước mơ “lập công ty PR đầu tiên ở Việt Nam” với tôi cũng đã tìm thấy niềm vui mới. Vũ bắt đầu vào làm việc ở Thời báo Kinh tế Việt Nam, Hòa lăn lộn suốt ngày để bán những vại sứa biển đầu tiên sang Nhật. Thiểu chỗ dựa về mặt tinh thần của những người cùng chí hướng, tôi cảm thấy hứng thú của mình với nghề PR nhạt đi rất nhiều.
Suốt năm năm tiếp theo, tôi yên lòng đi học, rồi được nhận vào làm việc ở bộ phận Thương mại và Đầu tư của Bộ Thương mại tiểu bang Oklahoma (Hoa Kỳ). Khi Oklahoma trở thành tiểu bang đầu tiên của Mỹ mở văn phòng thương mại ở Việt Nam, tôi trở thành chuyên viên thương mại và đầu tư của văn phòng, rồi sau đó được cử làm Giám đốc Văn phòng đại diện. Sở hữu một văn phòng riêng, một ô-tô riêng với một phụ tá, tôi có một mức lương thuộc hàng “khủng khiếp” so với thời đó, và ngày tháng nhẹ nhàng trôi đi, với một công việc cực kỳ nhàn hạ. Tôi dành thời gian chủ yếu để tham gia vào các diễn đàn thảo luận bắt đầu manh nha trên Internet ( cái biệt hiệu Sơn Ô Kê bắt đầu từ khi đó), viết những bài viết phê bình văn học đầu tiên của mình và…chơi game.
Trong lúc đó, thị trường PR bắt đầu có những chuyển động đầu tiên. Tại thành phố Hồ Chí Minh, công ty M. được thành lập và bắt đầu gây dựng được tên tuổi. Ở Hà Nội, công ty G. cũng chuyển dần các hoạt động tư vấn đầu tư “mở cửa thị trường” sang cung cấp các dịch vụ quan hệ công chúng. Mặc dù khá sốt ruột- và cả đôi chút ghen tị- khi nhìn thấy sự phát triển của thị trường, nhưng do quá thỏa mãn với công việc nhàn nhã của mình, tôi cứ mặc kệ.
Những năm đó, tôi bỏ khá nhiều thời gian lang thang trên mạng Internet. Một lần, trong khi dạo chơi trên mạng, tôi gặp chủ nhân của trang mạng vietnamonline.com, Douglas Thompson. Là chủ nhân của một công ty tổ chức sự kiện, nhưng cũng giống như một số người Mỹ ngây thơ khác của kỷ nguyên “dot com”, Douglas nhanh tay đăng ký tên miền vietnamonline.com (lúc đó AOL- AmericanOnline đang sừng sững như một tượng đài) với hi vọng có thể bán cho chính phủ Việt Nam hoặc một công ty Việt Nam nào đó sau này. Sau vài lần trao đổi trên mạng, Douglas nói với tôi anh ấy sẽ sang Việt Nam và hỏi tôi có cần gì không. Tôi vui miệng nói tôi nhớ rượu vang của vùng thung lũng Napa, đặc biệt là loại Beringer. Tôi không ngờ hai tuần sau, khi xuất hiện ở Việt Nam, Douglas khệ nệ mang tới cho tôi một thùng sáu chai rượu vang, đúng loại Beringer mà tôi thích. Cảm động vì sự chu đáo của một người hoàn toàn chưa quen biết, tôi hỏi tôi có thể giúp được gì cho anh ấy trong thời gian ở tại Việt Nam. “Nếu được, có thể bảo lãnh cho mình một visa xuất nhập cảnh nhiều lần không? Thủ tục làm visa của Sứ quán Việt Nam phức tạp quá, mà mình dự định sẽ còn sang Việt Nam nhiều”-“Không vấn đề gì”-tôi trả lời-“Tôi sẽ xin cho cậu một visa một năm, xuất nhập cảnh nhiều lần” (đã từng phụ trách việc quản lý các đoàn thương nhân ra vào Việt Nam từ Mỹ, tôi có nhiều người quen ở Cục Xuât Nhập Cảnh, nên việc mà Douglas nhờ hoàn toàn nằm trong lòng bàn tay
Một năm sau, Douglas sang Việt Nam, lần này có vẻ khá huyền bí. Anh lại mang sang cho tôi một thùng rượu vang, và thổ lộ anh đang có một thách thức lớn. “Mình phải tổ chức một sự kiện, nhưng một sự kiện rất đặc biệt, bởi vì mình sẽ phải tổ chức sự kiện cho những người chuyên đi tổ chức sự kiện”- anh nói. Khi nghe anh trình bày ý tưởng của mình, tôi phát hoảng. “Không được đâu, tôi chịu, không thể xin phép được”-tôi nói.”Ít nhất cậu có thể thử được không, vì mình một lần thôi”. “Thôi được”-tôi đầu hàng-mình sẽ thử”
Ở thời điểm đó, ý tưởng của Douglas thật “ngông cuồng”, nếu không nói là khá “báng bổ”. Anh ấy muốn tôi xin phép Bộ Văn Hóa để có thể sử dụng Văn Miếu trong một đêm cho việc tổ chức buổi dạ tiệc thứ nhất, thuê Nhà hát Lớn để tổ chức buổi dạ tiệc thứ hai (“nhưng tớ muốn đưa bàn tiệc lên sân khấu, còn ban nhạc sẽ chơi từ hàng ghế khán giả chứ tớ không muốn làm trong phòng Gương”), còn buổi thứ ba sẽ làm ở nhà hát múa rối nước Thăng Long. Vận dụng tất cả các mối quen biết của tôi (thậm chí của cả bố tôi ở Bộ Văn Hóa Thông tin), cuối cùng tôi cũng thu xếp ổn thỏa. Được mời như khách danh dự của cả ba bữa tiệc, lần đầu tiên tôi thấy tài năng “tổng chỉ huy” của Douglas trong một sự kiện thực sự đẳng cấp.
Tôi rất ngạc nhiên khi ngày hôm sau Douglas gọi cho tôi, giọng có vẻ khá hồi hộp. “Sự kiện rất thành công, khách hàng của mình cực kỳ hài lòng. Họ muốn gặp người đã giúp mình tổ chức sự kiện này. Cậu có thể qua khách sạn Metropole gặp sếp của họ được không?”.
Vốn chẳng bao giờ quá bận rộn, tôi đồng ý “tớ sẽ qua”. Tôi không biết rằng, tôi sẽ gặp một người khiến cho sự nghiệp của tôi thay đổi hắn.
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp Miles Young, chủ tịch vùng châu Á Thái Bình Dương của tập đoàn Ogilvy là nụ cười hết sức thân thiện của ông. Cao gần hai thước, ông tốt nghiệp đại học Oxford ngành Lịch sử, nhưng lại nhanh chóng trở thành một trong những người nổi tiếng nhất ở vùng châu Á Thái Bình Dương trong lĩnh vực quảng cáo và truyền thông. Trong suốt mười năm tiếp theo, ông sẽ là người thầy, người truyền cảm hứng, người bảo trợ đồng thời là một trong những người bạn tốt nhất của tôi. Nhưng trong buổi gặp đầu tiên-chúng tôi cùng ăn trưa ở Câu lạc bộ báo chí-tôi và Miles chủ yếu nói về nghệ thuật đương đại của Việt Nam, và hiểu biết của ông về hội họa Việt Nam có thể khiến cho bất kỳ nhà phê bình nghệ thuật Việt Nam thấy xấu hổ. Khi chúng tôi bắt đầu chuyển sang uống cà phê, ông đột ngột hỏi “Việt Nam chắc sẽ là một thị trường rất tốt về quan hệ công chúng, tại sao anh không thử mở một công ty về quan hệ công chúng?”. Vui chuyện, tôi kể cho Miles Young nghe về SH Communications và thất bại đầu đời của tôi. “Nếu như bây giờ thành lập lại công ty, và chúng tôi sẽ chia sẻ với anh về kinh nghiệm, kiến thức và cách điều hành nó, liệu anh có tự tin là nó sẽ thành công hay không?”
Đêm về, tôi suy nghĩ rất lung về điều đề nghị của ông Miles Young. Ở thời điểm đó, rất nhiều công ty “săn đầu người” đã liên hệ với tôi để chiêu dụ tôi về làm việc tại các công ty đa quốc gia khác, nhưng khi biết về mức lương hiện tại của tôi ở Bộ Thương mại bang Oklahoma, họ tự động rút lui. Tôi đang có một cuộc sống thú vị, nhàn hạ và vui vẻ.Tại sao phải “ôm rơm rặm bụng”, tại sao phải đối mặt với một đống thách thức về quản lý, điều hành trong khi tôi có thể dành thời gian đó để đọc sách, nghe nhạc, la cà ở các quán bar hay quán cà phê, một cuộc sống như tôi đang tận hưởng. Nhưng không hiểu sao, sự phấn khích về việc thực hiện ước mơ của mình khi còn sinh viên, ý tưởng về việc điều hành một công ty PR -có thể không còn là “công ty PR đầu tiên của Việt Nam nữa”- của riêng mình lại thôi thúc tôi nhận lời với Miles Young (trung thực ra mà nói, quyết định của tôi còn bị ảnh hưởng bởi một yếu tố khác nữa. Cũng thời điểm đó, Bộ Thương mại bang Oklahoma thông báo, do thay đổi trong luật của tiểu bang, họ không còn có thể thuê người nước ngoài làm việc cho cơ quan chính quyền tiểu bang nữa, và họ đề nghị tôi làm việc dưới dạng “nhà thầu”. “Thay đổi này hoàn toàn chỉ mang tính hình thức”-họ thuyết phục tôi-“mọi quyền lợi của anh vẫn được giữ nguyên. Anh còn toàn quyền kiểm soát ngân sách của tiểu bang dành cho văn phòng thương mại, nên thực ra là còn có lợi hơn cho anh nữa”. Tất nhiên, họ không đề cập đến chi tiết quan trọng nhất, đó là bảo hiểm và lương hưu của tôi sẽ không còn được đảm bảo)
Và đó là sự khởi đầu của T&A
Những bài học tôi muốn chia sẻ
Có một câu chuyện mà tôi nhớ mãi. Khi đang làm việc tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, một đồng nghiệp của tôi, người tôi rất khâm phục về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, quyết định nghỉ việc. Vào thời điểm đó, cơ quan Phòng Thương mại và Công nghiệp được coi là một trong những nơi làm việc tốt nhất Việt Nam: lương và “bổng” cao, cơ hội đi nước ngoài nhiều, “oai”…cho nên tôi rất ngạc nhiên. Khi tôi hỏi tại sao anh ấy lại quyết định ra đi, thay vì trả lời, đồng nghiệp của tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện ngụ ngôn. Một năm, trời làm hạn hán. Muôn vật đều khát khô cổ, đổ xô đi tìm nước. Có một con ếch tìm thấy một nồi nước, nó nhẩy vào nằm trong đó và khoan khoái nghĩ thầm: mát quaaaá! Mọi người đang thật đau khổ, còn mình thì sung sướng thế này đây. Nó không biết rằng người ta đang châm lửa đun nồi nước. Một lúc sau, nó thấy nước nóng dần lên, nhưng nó tự nhủ: có hơi nóng một tý thật, nhưng dù sao cũng tốt chán, còn hơn khối người không có cả nước nóng mà tắm. Nồi nước cứ nóng dần, và cuối cùng nó thành con ếch luộc. Đồng nghiệp của tôi kết luận: “Ở lại đây, tao mãi mãi chỉ là một thằng phiên dịch lẻo mép mà thôi. Phòng Thương mại cũng hay đấy, nhưng nước đang nóng lên, và tao không muốn thành con ếch luộc.” Thực tế cho thấy anh ấy đã nói đúng.
Ngày 1 tháng 6 năm 2011, bà Sandy Pratt, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại bang Oklahoma gọi điện thông báo vì lý do ngân sách, Bộ Thương mại tiểu bang “giải phóng” tôi khỏi chức vụ đại diện thương mại tại các nước ASEAN, chức vụ tôi đảm nhiệm suốt mười lăm năm qua. Trong mười lăm năm làm việc của mình, tôi đã « vượt qua » ba đời thống đốc (Frank Keating, Brad Henry và nay là Marry Falin), sáu đời Bộ trưởng Thương mại. Hầu hết các đồng nghiệp của tôi hoặc đã nghỉ hưu, hoặc đã ra đi tìm công việc mới. Nếu không có cuộc gặp gỡ với ông Miles Young, thông báo ấy chắc sẽ tạo cho tôi một cú sốc, bắt tôi phải đối mặt với cái mà người ta gọi là “khủng hoảng tuổi trung niên”- đứng giữa ngã ba đường, quá trẻ để nghỉ hưu, và có lẽ, quá già để bắt đầu một cái gì đó mới mẻ và thú vị- một “con ếch luộc” đúng nghĩa của nó. Còn hiện nay, sau mười năm chính thức quay lại với quan hệ công chúng, tôi đã cùng với các đồng nghiệp của mình thực hiện được ước mơ từ thủa sinh viên. Từ một công ty nhỏ, bắt đầu với bốn người (ba quản lý và một nhân viên) chúng tôi đã trở thành một trong những công ty quan hệ công chúng lớn nhất Việt Nam, với gần tám mươi chuyên gia làm việc cho hơn bốn mươi thương hiệu hàng đầu thế giới, và số tiền phí hàng năm thu được lên đến nhiều triệu đô-la.
Trong một số buổi nói chuyện về phát triển sự nghiệp, nhiều bạn trẻ hỏi tôi về bí quyết của, tạm gọi là, thành công của T&A. Thường thường, tôi thực sự rất lúng túng, vì với tôi, chẳng hề có bí quyết gì, hay nói cho đúng hơn, bất kỳ ai cũng có thể nói cho bạn bí quyết ấy: yêu công việc mình làm và chuẩn bị sẵn sàng để nắm bắt cơ hội khi nó đến.
Tôi luôn luôn nghĩ, để thành công, bạn phải yêu thích công việc của mình. Khách hàng của tôi, một cô gái trẻ quản lý một doanh nghiệp gia đình trị giá hàng trăm triệu đô-la có thể làm việc mười sáu tiếng đồng hồ một ngày, bảy ngày một tuần, ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm. Khi được hỏi, cô dành đâu thời gian cho nghỉ ngơi, giải trí hay đi tìm niềm vui cho mình, cô trả lời “với tôi công việc là nghỉ ngơi, giải trí và cũng là niềm vui”. Giống như cô, trong suốt nhiều năm, tôi có thể làm việc liên tục suốt ngày suốt tuần mà không thấy mệt mỏi, bởi vì khi được làm cái mà mình yêu thích, công việc không còn là “công việc”, nó chính là cách bạn giải trí hay nghỉ ngơi. Khi yêu công việc của mình, bạn luôn muốn làm nó một cách hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất, và mong muốn đó thúc đẩy quá trình tự học, tự hoàn thiện qui trình làm việc hay kỹ năng quản lý của bạn.
Tôi cũng cho rằng, nếu bạn đã yêu quí một công việc nào đó, xác định nó là sự nghiệp của mình, thì nói nhân vật Quềnh, “đừng hoãn cái sự sung sướng đó lại”. Nhiều khi tôi tự hỏi, nếu như tôi không bỏ phí năm năm, nếu như trong năm năm đó, tôi chấp nhận rủi ro và thách thức, kiên trì theo đuổi sự nghiệp của mình, liệu tôi có thể về đích sớm hơn năm năm được không? Tôi tin là có, tôi tin rằng, nếu ngày đó, tôi chấp nhận rời bỏ “nồi nước” mát mẻ ở Bộ Thương mại bang Oklahoma sớm hơn, chắc chắn vị thế của T&A hiện nay sẽ còn khác nữa. Nhưng cũng còn may là tôi kịp tỉnh ngộ. Đánh mất năm năm vẫn còn rẻ hơn đánh mất ước mơ của mình.
Buổi gặp gỡ và nói chuyện với ông Miles Young là một cơ hội hiếm có đối với tôi. Nhưng thực ra, nếu không có buổi nói chuyện ấy, tôi vẫn tin rằng, còn rất nhiều cơ hội trong cuộc sống cho những người theo đuổi sự nghiệp của mình. Các cơ hội, cơ may không thiếu, điều quan trọng là bạn phải được chuẩn bị tốt để nắm ngay lấy cơ hội đó và tận dụng nó
Và điều cuối cùng tôi muốn chia sẻ là: hãy giúp đỡ một cách bất vụ lợi cho những người bạn gặp ngẫu nhiên hàng ngày. Đó chính là những hạt mầm bạn gieo cho tương lai, những hạt mầm sẽ cho bạn thu hoạch ở lúc bất ngờ nhất. Tôi và Douglas trở thành bạn thân trong suốt những năm tháng qua, và có lần tôi hỏi làm thế nào tôi có thể cám ơn anh ấy vì đã giới thiệu Miles Young và tập đoàn Ogilvy cho tôi. “Nhớ đấy”- anh ấy nói-“hàng năm, cậu nợ mình một cái visa”. “Nhớ rồi, loại mười hai tháng, xuất nhập cảnh nhiều lần”- và chúng tôi cười phá lên.
(sưu tầm )

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

Mừng Bổn Mạng Gíao Xứ Bến Hải.

Hôm ấy Giáo Xứ Bến Hải (GX láng giềng của GX Bến Cát ) long trọng Mừng Bổn Mạng của Giáo Xứ 15/08/2011 Lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời, đồng thời Giáo Xứ đón mừng Đức Giám Mục PhêRô Nguyễn Văn Khảm về Ban Bí Tích Thêm Sức cho các em và lễ ra mắt HĐ MV nhiệm kỳ mới .


Thêm Sức tại GX Bến cát .

Ca Đoàn Thánh gia GX Bến Cát

Ca Đoàn Thánh Gia của mình , đảm nhiệm giờ hát lễ: 18h chiều thứ bảy và 19h tối ngày chúa nhật .
Nếu có điều kiện xin mời ACE tham gia nhé !


Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2011

SỨC MẠNH CỨU RỖI CỦA TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI


SỨC MẠNH CỨU RỖI CỦA TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt


.. Trích sử liệu cuộc đời thánh Giuseppe Cafasso, người Ý.Vào một sáng tinh sương, thánh Giuseppe Cafasso ra khỏi nhà thật sớm. Đường phố Torino, Bắc Ý, vắng lặng trống trơn. Bỗng thánh nhân gặp một cụ bà, ăn mặc nghèo nàn, dáng điệu lòm khòm, vừa đi vừa chậm rãi lần hạt Mân Côi. Ngạc nhiên, thánh nhân cất tiếng hỏi:
- "Có chuyện gì vội mà cụ phải ra khỏi nhà sớm thế?". Bà cụ trả lời:
- Ô, thưa ngài, con đi dọn sạch các đường phố.
Không hiểu, thánh Giuseppe Cafasso hỏi lại:
- "Dọn sạch các đường phố? Cụ ngụ ý nói gì thế?". Bà cụ thong thả đáp:
- Cha không thấy sao? Đêm vừa qua, diễn ra cuộc vui chơi trá hình ('carnavale') và dân chúng phạm không biết bao nhiêu thứ tội. Vì thế, giờ đây, con muốn đi trở lại tất cả các nẻo đường ghi dấu vết tội lỗi, vừa đi vừa lần hạt Mân Côi. Các lời kinh 'Kính Mừng Maria' sẽ trở thành hương thơm ngào ngạt tỏa ra thấm vào các nơi chốn tội lỗi!.
Thật vậy, lời Kinh Mân Côi có sức mạnh tẩy luyện linh hồn khỏi các vết nhơ tội lỗi và ướp đượm ơn lành. Kinh Mân Côi cứu thoát các linh hồn. Thánh Massimiliano-Maria Kolbe từng nói: "Bao nhiêu tràng chuỗi Mân Côi là bấy nhiêu linh hồn được cứu rỗi!". Kinh Mân Côi mang lại sự lành cho tất cả mọi người: từ kẻ tội lỗi đến người tốt lành cũng như các bậc thánh nhân.
Khi được hỏi ý kiến phải chọn lời kinh nào, thánh Filippo Neri không do dự trả lời ngay: "Hãy lần hạt Mân Côi và lần hạt nhiều bao nhiêu có thể". Đức Giáo Hoàng Phaolo VI cũng quả quyết rằng: "Tràng Kinh Mân côi là tràng xích cứu rỗi, rơi từ đôi tay chí thánh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ con người và của Đức Maria, Hiền Mẫu Ngài. Tràng chuỗi Mân Côi tuôn đổ xuống trên chúng ta muôn vạn ơn lành. Và cũng từ tràng chuỗi Mân Côi, chúng ta dâng lên Các Ngài mọi ước muốn cùng trọn niềm hy vọng của chúng ta".
Tràng chuỗi Mân Côi còn có sức mạnh lớn lao cứu thoát các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Thánh Alfonso de Liguori nhắn nhủ con cái ngài rằng: "Nếu muốn cứu giúp các linh hồn nơi Luyện Hình, hãy lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho các vị ấy". Thánh Pio da Pietrelcina, mỗi lần trao tặng ai tràng chuỗi Mân Côi, ngài thường nói: "Hãy đưa các Linh Hồn ra khỏi Luyện Ngục bằng việc lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ".. Vị thánh người Ý có lòng nhiệt thành an ủi các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội bằng tràng kinh Mân Côi là thánh Pompilio Pirrotti. Thánh nhân được đặc ân lần hạt hạt chung với các đẳng Linh Hồn. Các đẳng Linh Hồn thưa lớn tiếng lời kinh Kính Mừng Maria với giọng trầm tĩnh và an bình, suốt trong buổi lần hạt Mân Côi chung với thánh Pompilio Pirrotti.
Chị Lucia dos Santos, một trong ba trẻ mục đồng Fatima còn sống và là nữ tu dòng Kín Cát-Minh cũng nhấn mạnh: "Kể từ khi Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria ban cho Tràng Kinh Mân Côi có một hiệu lực mênh mông, không còn vấn đề nào thuộc bất cứ phạm vi tinh thần hay vật chất, quốc gia hay quốc tế, mà lại không giải quyết được với Kinh Mân Côi và với những hy sinh quảng đại của chúng ta".
Kinh Mân Côi và Trái Tim Vẹn Sạch Đức Maria (Khiết Tâm Đức Mẹ) sẽ ghi dấu chứng chiến thắng sau cùng của Nước Thiên Chúa nơi thời đại chúng ta đang sống.
Lòng hâm mộ lần hạt Mân Côi và lòng sùng kính Khiết Tâm Đức Mẹ là những bảo chứng chắc chắn cho ơn cứu rỗi loài người. Chính Đức Mẹ đã hứa với chị Lucia dos Santos rằng: "Những ai siêng năng lần hạt Mân Côi và yêu mến Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ, sẽ được Thiên Chúa yêu dấu cách riêng và sẽ trở thành bông hoa được Mẹ kết lại và dâng lên trước tòa Chúa".
(P. Stefano Maria Manelli, "MAGGIO, mese di MARIA", Casa Mariana Editrice, 1999, trang 192-197). 
st
***************************************************************************

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Chúc mừng bổn mạng các thành viên mang tên thánh Teresa .


Hân hoan chúc mừng các chị các em nhận Thánh Teresa làm quan thày !
Nguyện xin Chị Thánh Teresa chúc lành cho tất cả!


Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

LẮNG NGHE ƠN GỌI

Ảnh của Giuse Nguyễn Cao Hoàn (ĐCV Hànội)

Em học lớp tám, tuổi mười ba
Má hồng, mắt sáng, tóc đuôi gà.
Ăn nói nhẹ nhàng ai cũng mến
Lớn lên mẹ hứa ... tặng Đức Bà!
(Trích thơ của Tiểu Muội)

ƠN GỌI TUỔI HỒNG


Ảnh của Giuse Nguyễn Cao Hoàn (ĐCV Hànội)
Tuy con không nói vẫn hằng mong
Sau này khôn lớn con nguyền hứa
Quyết chí làm Sơ ở nhà dòng!

(Trích thơ của Tiểu Muội)

Chiều

Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi

Chiều nghiêng chạng vạng ánh dương tàn
Đổi dời nhân thế lẽ hợp tan
Vững tin - cậy - mến vào ơn cứu
Thập giá tín thành, khấng thương ban.
(Joseph Nguyễn Tro Bụi)

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Lễ Kính Các Tổng Lãnh Thiên Thần và Câu chuyện có thật

Thánh Micae - Tổng Lãnh Thiên Thần - Lễ kính: 29 tháng 9.
Nhân ngày kỷ niệm thánh hiến vương cung thánh đường kính thánh Micae, Giáo Hội mừng chung các Tổng Lãnh Thiên Thần Gabirie, Micae và Raphae do Thánh kinh cho biết. Các Đấng được mô tả như những vị thần linh được Thiên Chúa gửi đến, lấy hình hài người ta, để ban bố mệnh lệnh hay thực hiện sứ mạng. Micae, danh từ Hêbrô có nghĩa “Ai bằng Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đamien (10, 13-21) và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma qủi.

Giáo Hội coi người là Đấng bảo trợ, được tôn kính từ xa xưa bên Đông phương. Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của thánh Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền nam nước Ý, dưới thời đức Gelase (192-196).

Tại Pháp, thánh Thiên Thần là một thánh quan thầy, tuy việc hiện ra ở núi Mont-Saint-Michel không thể kiểm chứng được, nhưng nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Jeanne d’Arc, Thánh Micae đã thúc dục Bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước.
Thánh Micae là quan thầy những người làm nghề phải dùng đến lò nung như người làm bánh; Thánh Thiên Thần cũng là quan thầy đoàn lính dù. Nhiều thành phố mang tên Người. Thánh Micae cũng được cầu khi giúp bệnh nhân sắp chết.


Tổng Lãnh Thiên Thần Raphael - Lễ kính: 29 tháng 9
Cùng được mừng chung nhân ngày kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Thánh Micae ở Lamã, ba vị tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, Micae và Raphael, những vị mà chúng ta biết qua Thánh Kinh. Các Ngài là những vị thiên sai do Thiên Chúa gửi đến, dưới hình tượng con người để loan báo những mệnh lệnh hoặc để thi hành một số nhiệm vụ.


Danh xưng Raphael tiếng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành.” Sách Tobia, mô tã người là hướng dẫn viên ông Tobia con và đã làm cho Tobia Cha khỏi mù mắt. Người liền cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện.”

Mục đích của câu chuyện là để minh chứng sự Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael được cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khoẻ mạnh và là quan thầy người đi đường.


Tổng Lãnh Thiên Thần Gabiriel - Lễ kính: 29 tháng 9.
Ba vị Thiên Thần được Giáo Hội mừng chung trong ngày kỷ niệm lễ thánh hiến vương cung thánh đường Thánh Micae ở Lamã: đó là các tổng lãnh Thiên Thần Gabirie, Micae và Raphae do Thánh kinh cho chúng ta biết, như những vị thiêng liêng được Chúa gửi đến dưới hình người ta để thi hành một số mệnh lệnh.

Gabirie, danh xưng Hêbrô có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh” được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và đấng Messia sẽ đến thực hiện. Gabirie được gửi đến với ngôn sứ Danien (Dn 8, 16;9,21-27), với ông Giacaria và Đức Mẹ (Lc 1,11-38;8,16-27;9,21-27).

Việc tôn sùng thánh Gabirie nổi bật vào thế kỷ X. Năm 1951, đức Piô XII đặt làm quan thầy các chuyên viên truyền thông (truyền thanh, truyền hình, điện thoại).


Kim Hà
29/9/2006

 CÂU CHUYỆN CÓ THẬT 

Chuyện xảy ra trong chiến tranh, và đây là một câu chuyện có thật, vốn hằng năm vào mùa Giáng Sinh, câu chuyện này vẫn thường được đọc lên trên đài truyền thanh ở các tiểu bang thuộc về phía Tây Hoa Kỳ, cũng như được các vị Linh Mục Tuyên Úy đọc lên cho tất cả các binh sĩ tham chiến nghe. Câu chuyện được kể lại bởi một người Lính Thủy Quân Lục Chiến trẻ tuổi tham gia vào cuộc chiến Triều Tiên vào năm 1950 trong Lá Thư mà Anh viết để gởi về cho người Mẹ của mình ...

Mẹ Kính Yêu,

Con không dám viết lá thư này cho bất kỳ ai, ngoại trừ Mẹ vì rằng sẽ không có ai tin con cả, ngoài Mẹ. Dẫu rằng Mẹ sẽ có lúc cảm thấy thật khó tin, thế nhưng con bắt buộc phải kể ra câu chuyện này cho một ai đó.

Điều đầu tiên chính là con hiện đang nằm viện. Mẹ đừng lo lắng gì cả nhé, nhớ nghe Mẹ, Mẹ đừng lo lắng gì cả nhé! Con bị thương nhưng không sao đâu. Bác sĩ nói rằng con sẽ bình phục trở lại trong khoảng một tháng. Nhưng, đó phải là chuyện mà con muốn nói cho Mẹ.

Mẹ có nhớ không, vào năm ngoái khi con gia nhập Thủy Quân Lục Chiến, Mẹ có nhớ ngày mà con rời Mẹ ra chiến trận không?

Chính Mẹ đã dạy cho con cách đọc kinh cầu nguyện đến Thánh Micae, Tổng Lãnh Thiên Thần, và Mẹ lúc nào cũng nhắc con là phải đọc kinh đó mỗi ngày. Thật ra, Mẹ không cần phải nói cho con điều đó. Thậm chí, Mẹ còn đặt cả tên của con là Michael nữa, giống như tên của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae vậy. Con lúc nào cũng cầu nguyện đến Thánh Micae. Khi con đến Triều Tiên, thì con còn đọc kinh đó nhiều hơn nữa.

Mẹ có nhớ lời cầu nguyện đến Thánh Micae mà Mẹ đã dạy cho con không? Nó được bắt đầu như thế này "Lạy Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, vào buổi sớm mai, xin hãy bảo vệ và che chở con, vân vân.. .."

Mẹ thừa biết phần còn lại của kinh nguyện đó là gì rồi, và con vẫn đọc kinh đó mỗi ngày. Đôi lúc con lại đọc kinh đó khi con đang đi tuần hoặc trước lúc nghĩ ngơi, lúc nào con cũng đọc kinh đó trước khi đi ngủ cả. Con thậm chí còn dạy cho các bạn đồng đội của mình đọc kinh đó nữa.

Rồi một ngày kia, khi con được giao nhiệm vụ ở gần phía chiến tuyến. Trung đội của chúng con đang đi tuần để tìm quân địch. Khi đó trời rất là lạnh cóng, và con đi rất mỏi mệt, hơi thở con giống như là khói thuốc của điếu cigar vậy. Con thừa biết hết tất cả những người bạn trong trung đội của con, bỗng dưng đi bên cạnh con có một người lính Thủy Quân Lục Chiến mà con chưa hề gặp qua trước đây bao giờ. Anh ta bự hơn hết tất cả những người lính Thủy Quân Lục Chiến mà con đã từng gặp gở trước đây. Anh ta chắc phải cao hơn 6 feet 4 và thân hình rất gọn, nhưng rất vạm vỡ. Tự điều đó cho con cái cảm tưởng là cảm thấy được an toàn vì có một người to cao như vậy đi bên mình.

Cả hai chúng con chậm chạp bước đi cùng nhau, trong khi đó cả trung đội phân tán người ra khắp mọi phương hướng. Để bắt đầu cuộc trò chuyện con mới nói rằng: "Lạnh quá há, anh bạn."

Thế rồi, con cười lên. Dẫu biết rằng con có thể sẽ bị giết chết đi bất cứ lúc nào không hay, nhưng không hiểu tại sao lúc đó con lại không sợ chết và lại nói chuyện về thời tiết!

Người bạn đồng hành của con trông có vẽ hiểu được ý con. Con lắng nghe anh ta cười nhẹ.

Con nhìn vào anh ta, và nói: "Tôi chưa hề gặp anh bao giờ trước đây, dẫu rằng tôi biết rất rõ các bạn lính trong trung đội của tôi."

Anh bạn đó trả lời: "Tôi vừa mới tham gia vào trung đội của anh vào giờ phút chót, và tên tôi là Michael."

Con mới trả lời lại một cách ngạc nhiên: "Thật đúng như vậy sao? Tôi cũng có tên như vậy đó."

Anh bạn đó đáp lại: "Tôi biết..." rồi anh ta đọc to lên kinh nguyện đến Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, mà Mẹ đã dạy cho con khi con còn nhỏ.

Con hết sức ngạc nhiên và không thể nào nói ra được điều gì trong giây lát. Làm sao mà anh này biết được tên con, và kinh nguyện gởi đến Tổng Lãnh Thiên Thần Micae mà Mẹ đã từng dạy cho con?

Rồi con tự cười với chính bản thân mình rằng: đúng là mỗi người lính trong trung đội của con đều biết được con cả. Phải chăng không phải chính con là người đã dạy cho họ kinh cầu nguyện đó sao? Và kể từ đó trở đi, chúng bạn trong trung đội vẫn thường gọi con là Thánh Micae, cơ mà?

Cả hai chúng con đều không nói ra bất cứ điều gì trong chốc lát, rồi bổng dưng, anh bạn đó phá tan sự im lặng.

"Chúng ta sắp sửa gặp nguy hiểm rồi đó, anh bạn ạ!"

Anh ta chắc hẳn rất là khỏe mạnh, vì con chẳng thể nào lắng nghe được tiếng thở của anh ta, trong khi hơi thở của con vẫn thùng thình rất to, và phun ra những làn khói dày đặc trong đám mây rất dày. Giờ thì trên mặt của anh ta đã không còn một nụ cười nào nữa. Sắp sửa gặp nguy hiểm ở phía trước rồi đó, khi nghe câu nói đó, con thầm nghĩ, dĩ nhiên là đúng vậy rồi, và đâu có gì là ngạc nhiên lắm đâu, vì bọn cộng sản lúc nào cũng ở chung quanh khu này, thật chẳng có gì đáng gọi là sự mạc khải cả!

Tuyết bắt đầu rơi xuống một cách nặng hạt hơn và phủ kín toàn bộ khu vực mà trung đội của con đang dò thám. Bổng chốc nguyên một vùng quê bị xóa đi, và con đang đi tuần trong làn sương mù trắng ẩm ướt. Anh bạn đồng hành của con tự dưng biến mất rồi.

Con mới hốt hoảng la lớn lên "Michael!" Sau đó con cảm thấy bàn tay của anh ta trong cánh tay của con, giọng nói của anh ta rất rõ ràng và mạnh mẽ, rồi anh ta nói cho con biết rằng: "Tuyết sẽ ngừng rơi hẳn trong chốc lát!"

Lời tiên đoán của anh ta quả đúng thật. Trong chốc lát, tuyết bổng dưng ngừng hẳn, giống như khi nó đột ngột rơi xuống vậy. Mặt trời đã dần ló dạng. Con quay lại để tìm xem các bạn trong trung đội của mình đang ở đâu. Thế nhưng, con chẳng nhìn thấy được ai cả. Tất cả chúng con đã mất nhau khi tuyết rơi nặng xuống. Con nhìn lên phía trước, ôi Mẹ ơi, tim con đã ngừng đập hẳn rồi khi con nhìn thấy bảy tên lính địch trong quần độn, áo chống đạn và nón rất ngộ với bảy họng súng bắt đầu chĩa hướng vào con.

Con mới la lớn lên cho anh bạn cùng biết: "Nằm ngay xuống, Michael!" và rồi nhanh chóng nằm xuống mãnh đất lạnh cóng như tảng băng. Con nghe được bảy tiếng súng bắn ra cùng một lúc. Con còn nghe được cả tiếng vỏ đạn rơi. Thế mà anh bạn Michael vẫn còn đứng thẳng đó.

Mẹ ạ, không thể nào mà bảy tên này lại có thể bắn trật được anh bạn Michael vì rằng khoảng cách rất là gần. Con thừa biết chắc: anh ta sẽ phải tan xác ra từng mãnh một, thế mà anh ta vẫn đứng, và chẳng hề tìm cách để bắn trả lại. Anh ta bị tê liệt vì sự sợ hãi. Điều đó đôi lúc vẫn có thể xảy ra, Mẹ ạ, vì rằng thậm chí đối với những ai là gan dạ nhất, cũng đều phải kinh qua những giây phút như vậy cả! Anh ta giống như là một con chim, bị một con rắn cuốn hút vậy. Ít ra đó chính là điều mà con nghĩ ra lúc đó. Con nhảy lên và kéo anh ta xuống đất, và đó chính là lúc mà con bị trúng đạn của bọn cộng sản. Con cảm thấy một ngọn lửa dường như bất chợt chạy qua ngực của con vậy. Con vẫn thường tự hỏi sẽ cảm thấy như thế nào nếu như mình bị trúng đạn. Giờ đây thì con đã cảm nghiệm được điều đó.

Con nhớ là mình cảm thấy có những cánh tay rất mạnh mẽ bao chung quanh mình, những cánh tay giống thể chúng quá nhẹ nhàng để đặt con trên cái gối của tuyết sương dày đặc. Con mở mắt ra, để nhìn cho thật kỷ một lần cuối. Con tưởng là con đang chết vậy. Có lẽ, là con đã từng bị chết rồi. Con nhớ là mình vẫn còn suy nghĩ rất bình thường mà, quả đúng đây là một cảm nghiệm rất tuyệt vời.

Có lẽ con đang nhìn lên mặt trời. Có lẽ con đang bị sốc, nhưng có vẽ như là con đã thấy anh bạn Michael vẫn đứng thẳng trở lại, chỉ có lần này thì mặt của anh ta mới được chiếu sáng một cách lộng lẫy, chói lọi khác thường mà thôi!

Như con đã nói trước đó, có lẽ đó là ánh mặt trời trong mắt con, thế nhưng anh bạn Michael trông có vẻ đã thay đổi khi con ngắm nhìn anh ta. Anh ta to con hơn, hai cánh tay của anh ta dang rộng ra hơn, có lẽ tuyết bắt đầu rơi xuống trở lại, thế nhưng có một vệt sáng vây chung quanh anh ta giống thể như đó chính là những đôi cánh của một thiên thần vậy. Trong tay anh ta có một ngọn kiếm. Một ngọn kiếm phát ra hàng triệu ánh sáng.

Vậy đó, Mẹ ạ, đó chính là những điều cuối cùng hết mà con vẫn còn nhớ, mãi cho đến khi các bạn đồng đội chạy đến và tìm thấy được con. Con không biết khoảng thời vừa trôi qua là bao lâu. Thế nhưng giờ đây lại là lúc mà con nghĩ ngơi trong sự đớn đau và cơn bệnh cảm cúm. Con còn nhớ là mình đã báo cho các đồng đội biết được là có kẻ thù đang ở phía trước.

"Anh bạn Michael đâu rồi?" Con hỏi. Con nhìn thấy các bạn đồng đội của mình, hết đứa này, nhìn đứa khác và cứ như thế, chúng ngạc nhiên và hỏi: "Mày hỏi ai đang ở đâu phải không?"

Con mới trả lời, "Anh bạn Michael, anh bạn Thủy Quân Lục Chiến to lớn đó, người mà tôi cùng đi tuần, trước khi đám mây tuyết phủ xuống chung quanh chúng ta đó."

Người chỉ huy của con bèn nói: "Này, cậu ạ! Cậu đâu có đi tuần với ai đâu. Lúc nào tôi cũng đã để mắt đến cậu đó cậu ạ. Cậu đã đi ra quá xa sát gần với khu của cộng sản. Tôi chuẩn bị gọi cậu quay trở lại, tức thì cậu biến mất đi trong đám mây tuyết."

Rồi người chỉ huy nhìn con với cặp mắt tò mò, khi Ông ta dọ hỏi con rằng: "Này cậu, cậu đã làm cách nào mà thoát được vậy cậu?"

Con nửa giận dữ, bèn trả lời, mặt cho vết thương: "Chỉ huy hỏi ra sao tôi không hiểu.. . tôi chỉ biết rằng cái anh chàng Thủy Quân Lục Chiến cao lớn tên là Michael, cùng với tôi, chúng tôi vừa mới.. ..."

Tức thì, người chỉ huy dứt lời con ngay và nói: "Này cậu, chính tôi đã chọn cho cậu mặc bộ đồ chiến phục này, và chẳng có tên Michael nào khác, ngoài cậu, và chỉ có cậu mới là người đã mặc vào bộ chiến phục này, cậu nhé."

Ông ta dừng lại một chút, và nói tiếp: "Cách nào mà cậu đã thoát chết vậy cậu? Vì chúng tôi nghe được những tiếng súng bắn, và chẳng nghe được phát súng nào xuất phát từ súng của cậu cả, và chẳng có dấu hiệu nào cho thấy là cậu đã bắn trúng xác của bảy tên địch quân trên ngọn đồi đó cả."

Con chẳng nói được gì hết.... Con chỉ có thể mở lớn miệng với đầy sự ngạc nhiên vô hạn.. ..

Rồi ... lại người chỉ huy, Ông ta lại mở miệng và bảo con một lần nữa. "Này cậu" giọng Ông ta nhỏ nhẹ hơn lúc trước, "mỗi một người trong số bảy tên kia bị giết bởi một lưỡi kiếm chứ không phải bằng súng đâu!"

Vậy đó, Mẹ ạ - Đó chính là tất cả những gì mà con có thể kể cho Mẹ.

Như con đã nói, có thể là ánh mặt trời trong mắt con, có lẽ đó là cơn giá lạnh, hay cũng có thể đó là cơn đớn đau, nhưng đó lại chính là tất cả những gì đã xảy ra cho con tại vùng chiến tuyến đó!

Yêu Mẹ,
Con Michael.

T.B.: Câu chuyện này đã được đăng trong tạp chí Garabandal Journal, P.O.Box 1796 , St. Cloud , MN 56302-1796 , USA .

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011

Lời Kinh Cuộc Đời

Lời Kinh Cuộc Đời


Lm Giuse Đặng Quang Thắng OP






Lời kinh bay giữa núi đồi,
May ra lên tới chân trời ước mơ.
Lời kinh lắng đọng trong thơ,
Nhắc ta nhớ tiếng ầu ơ năm nào.

Lời kinh giữa chốn lao xao,
Giúp ta bới thói ồn ào lăng xăng.
Lời kinh thầm lặng dưới trăng,
Đưa ta đến với chị Hằng tươi xinh.

Lời kinh đón đợi bình minh,
Một đời tín nghĩa ân tình mãi xuân.
Lời kinh thấm lệ vong ân,
Bao nhiêu vương vấn nỡ nần trôi xuôi.

Lời kinh hòa với tiếng cười,
Xua tan nhọc mệt phận người bon chen.
Lời kinh chẳng sách chẳng đèn,
Than van không tiếng ca khen không lời.

Lời kinh ấy thấu lòng trời,
Mọi nơi mọi lúc sáng ngời chân tâm.
Tỏa lan như áng hương trầm,
Muôn đời như tiếng thì thầm Cha – con.

Lm Giuse Đặng Quang Thắng OP

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm A

BÀI ĐỌC I: Ed 18, 25-28
"Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, nó sẽ được sống".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Đây Chúa phán: "Các ngươi đã nói rằng: 'Đường lối của Chúa không chính trực'. Vậy hỡi nhà Israel, hãy nghe đây: Có phải đường lối của Ta không chính trực ư? Hay trái lại đường lối của các ngươi không chính trực? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết. Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết".
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5. 6-7. 8-9
Đáp: Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Chúa (c. 6a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa; xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Đáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin đừng nhớ lỗi lầm khi con còn trẻ và tội ác, nhưng hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Đáp.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho con nhận biết đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: Pl 2, 1-5 {hoặc 1-11}
"Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Anh em thân mến, nếu có sự an ủi nào trong Đức Kitô, nếu có sự khích lệ nào trong đức mến, nếu có sự hiệp nhất nào trong Thánh Thần, nếu có lòng thương xót nào, thì anh em hãy làm cho tôi được trọn niềm hân hoan, để anh em hưởng cùng một niềm vui, được cùng chung một lòng mến, được đồng tâm nhất trí với nhau, chớ làm điều gì bởi ý cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình, mỗi người đừng chỉ nghĩ đến những sự thuộc về mình, nhưng hãy nghĩ đến những sự thuộc về kẻ khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Giêsu Kitô.
{Người tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong hoả ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang.}
Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 21, 28-32
"Nó hối hận và đi làm. Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".
Đó là lời Chúa.

www.thanhlinh.net

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2011

Lễ Thêm Sức 14/6/2011 GX Bến Cát

THEMSUC


traihe

traihe


traihe

traihe

traihe

traihe

traihe

traihe

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Best WordPress Themes